clock

Thị Trường

19:57 23-08-2017

Bộ Tài chính đề xuất giảm thuế nhập khẩu linh kiện ô tô

Với hai phương án đưa ra, Bộ Tài chính đề xuất giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu linh kiện ô tô trung bình của cả bộ linh kiện từ 14-16% xuống 9 - 11% đối với xe dưới 9 chỗ và 7,9% đối với xe tải dưới 5 tấn.

Bộ Tài chính vừa công bố Dự thảo công văn về việc chính sách thuế nhập khẩu đối với linh kiện ô tô giai đoạn 2018-2022 đưa ra 2 phương án giảm thuế nhập khẩu linh kiện kèm theo điều kiện về sản lượng xe sản xuất lắp ráp.

2 nhóm xe được áp dụng là nhóm xe chở người dưới 9 chỗ, có dung tích xi lanh từ 2.000 cc trở xuống, tiêu hao nhiên liệu dưới 7lít/100km, tiêu chuẩn khí thải mức 4 (giai đoạn 2018-2021); mức 5 từ năm 2022 trở đi; và (2) Nhóm xe tải có tổng trọng lượng có tải từ 5 tấn trở xuống, tiêu chuẩn khí thải mức 4 (giai đoạn 2018-2021); mức 5 từ năm 2022 trở đi.

Cụ thể, phương án 1, giảm thuế suất thuế nhập khẩu MFN của 163 dòng thuế linh kiện ô tô nhập khẩu để lắp ráp cho 2 nhóm xe về 0%. Theo đó, giảm mức thuế suất trung bình của cả bộ linh kiện từ 14-16% xuống khoảng 7% đối với xe dưới 9 chỗ và khoảng 1% đối với xe tải dưới 5 tấn.

Phương án 2, giảm thuế suất thuế nhập khẩu MFN của 19 dòng thuế linh kiện là động cơ, hộp số, cụm truyền động, bơm cao áp để lắp ráp cho 2 nhóm xe từ các mức 3%, 5%, 10%, 15% 18%, 20%, 25%, 30%, 32%, 45%, 50% xuống 0% (do đây là một số linh kiện, phụ tùng trong giai đoạn tới Việt Nam chưa thể sản xuất) và giảm thuế suất của 42 dòng thuế thuộc nhóm 8708 (bộ phận và phụ kiện của xe ô tô) để lắp ráp cho 2 nhóm xe nêu trên từ các mức 15%, 20% và 25% xuống 10%.

Theo đó, giảm mức thuế suất trung bình của cả bộ linh kiện từ 14-16% xuống 9 - 11% đối với xe dưới 9 chỗ và 7,9% đối với xe tải dưới 5 tấn.

Theo Bộ Tài chính, cả hai phương án đều có ưu điểm khuyến khích doanh nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô được hưởng lợi thế từ Chương trình ưu đãi thuế giảm chi phí, giảm giá bán để nâng cao sự cạnh tranh so với xe ô tô nhập khẩu để tăng sản lượng tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu.

Đồng thời, khuyến khích phát triển được ngành công nghiệp phụ trợ thông qua việc tăng nhu cầu đối với linh kiện sản xuất trong nước; khuyến khích xuất khẩu ô tô. Nếu so sánh 2 phương án, phương án 1 sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào nhiều hơn phương án 2, với mức độ ưu đãi thuế nhập khẩu cao hơn.

Tuy nhiên, cả 2 phương án này cũng có nhược điểm là một số doanh nghiệp không có chủ trương mở rộng sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam sẽ khó khăn do không được hưởng mức thuế suất 0% khi nhập khẩu bộ linh kiện để lắp ráp, các công ty này sẽ thu hẹp sản lượng sản xuất lắp ráp và dần chuyển sang nhập khẩu xe nguyên chiếc để kinh doanh thương mại. 

Theo đó, sẽ thu hẹp số lượng doanh nghiệp sản xuất lắp ráp.

Bên cạnh đó, các phương án trên cũng chưa thật sự phù hợp với Quyết định số 229/QĐ-TTg. Đặc biệt, việc thực hiện 2 phương án đều có khả năng vi phạm các cam kết WTO căn cứ theo đoạn 177 Báo cáo gia nhập WTO và Điều 3.1 Hiệp định Trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO nên có ý kiến lo ngại sẽ có khả năng bị các nước thành viên WTO khiếu kiện hoặc gặp phản ứng từ các doanh nghiệp hoặc đại sứ quán của các nước không được hưởng lợi từ các chính sách này.

Tuy nhiên, Bộ Tài chính cũng cho biết, trong WTO cũng có ngoại lệ nếu việc ưu đãi thuế nêu trên là vì mục đích môi trường, vì vậy, với quy định về điều kiện về tiêu chuẩn tiêu hao năng lượng và tiêu chuẩn phát thải khí thải của mẫu xe cam kết và mục tiêu của chương trình ưu đãi thuế chỉ cho xe tiết kiệm nhiên liệu, thân thiện môi trường thì sẽ giảm khả năng vi phạm cam kết WTO tương tự như chương trình ưu đãi thuế 5 năm của Indonesia vừa thực hiện năm 2013.

 

theo Bizlive