clock

Thị Trường

11:18 25-11-2022

Thị trường viễn thông bão hòa - Doanh nghiệp đang "vượt sóng" thế nào?

Thị trường viễn thông truyền thông đã và đang bão hòa khi phải đứng trước nhiều biến động như sụt giảm doanh thu thoại/SMS truyền thống, sự thắt chặt quản lý chính sách ngành, thay đổi về xu hướng công nghệ.

Điều này buộc các doanh nghiệp phải đổi mới, mở rộng hệ sinh thái và chuyển dịch sang môi trường số nếu không muốn bị đào thải.

Doanh thu viễn thông truyền thống sụt giảm, đạt “điểm bão hòa”

Nửa đầu năm 2022, doanh thu toàn ngành viễn thông đạt 156.556 tỷ đồng theo Báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông. So với cùng kỳ năm 2021, con số này có tăng nhưng không đáng kể, chỉ hơn 0,6%. Đáng chú ý, mảng kinh doanh cốt lõi là viễn thông đang suy giảm mạnh. Khủng hoảng Covid-19 đã làm thay đổi hoàn toàn thị trường, đặt ra bài toán buộc các doanh nghiệp phải mở rộng dịch vụ sang các mảng khác như dịch vụ số, bán thiết bị, sản phẩm…để đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế.

Xu hướng chung trên toàn cầu và sự phát triển của công nghệ cho thấy, các dịch vụ thoại và tin nhắn ngày càng giảm (giảm 10-15%/năm) để nhường chỗ cho nguồn thu từ dịch vụ data và các dịch vụ OTT. Dung lượng sử dụng data tăng mạnh, tuy nhiên, đơn giá ngày càng giảm, khiến cho doanh thu data tại Việt Nam chỉ đạt 23,4% tổng doanh thu (trung bình thế giới đạt trên 43%), không đủ bù đắp cho sự sụt giảm doanh thu thoại/SMS. 

Theo nhận định của E&Y, thị trường di động Việt Nam là thị trường có tính cạnh tranh cao, ngày càng trở nên bão hòa với tỷ lệ sử dụng SIM đạt 137% vào năm 2020. Cạnh tranh xoay quanh giá cả và mức giá cước thấp đã đẩy ngành di động Việt Nam đến mức bão hòa và giảm khả năng sinh lời theo xu hướng toàn cầu. Hơn nữa, sự phụ thuộc vào các dịch vụ trả trước gây áp lực mạnh lên doanh thu trung bình trên mỗi người dùng (ARPU).

Dự báo doanh thu dịch vụ di động (tỷ USD) (Nghiên cứu thứ cấp; Phân tích của EY)

 

Thị trường di động có thể được chia thành ba loại chính; SMS, Thoại và Data. Thoại và SMS được xếp vào nhóm các dịch vụ viễn thông truyền thống, chiếm tới 90% doanh thu dịch vụ di động Việt Nam năm 2016. Tuy nhiên, việc phát triển của các dịch vụ hỗ trợ dữ liệu di động như nhắn tin nhanh, VoLTE đã nhanh chóng làm các dịch vụ này giảm sút và chỉ còn đóng góp 60% vào doanh thu dịch vụ di động Việt Nam đến năm 2020.

Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng chung của thị trường chậm lại do có quá nhiều nhà khai thác, cạnh tranh giữa các nhà mạng ngày càng quyết liệt hơn khi thị phần di động Việt Nam đa số thuộc sở hữu của 3 nhà mạng lớn nhất gồm MobiFone, Viettel, VinaPhone chiếm trên 90%. Xu hướng tiêu dùng data bùng nổ cùng với sự phát triển công nghệ di động 4G/5G, tạo áp lực lớn lên các nhà mạng trong việc cân bằng giữa mục tiêu đầu tư phát triển vùng phủ sóng/gánh nặng đáp ứng nguồn vốn-tài chính với các mục tiêu tăng trưởng (doanh thu, lợi nhuận hàng năm).

Cùng với việc cơ quan quản lý viễn thông Việt Nam triển khai hàng loại chính sách lành mạnh hóa thị trường di động như: siết chặt việc quản lý thông tin người dùng, triển khai áp dụng chuyển mạng giữ số, điều chỉnh chính sách kết nối, khởi động thúc đẩy triển khai 5G, Mobile Money, M2M, IoT,…buộc các doanh nghiệp viễn thông phải thay đổi hướng đi, tập trung xây dựng và củng cố nền tảng công nghệ sau để có thể chuyển đổi thành “Doanh nghiệp số”.

Nhận định về thực trạng này, đại diện một doanh nghiệp viễn thông cho biết thị trường viễn thông truyền thông bão hòa đã “nhen nhóm” từ vài năm trước. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải mở rộng sang không gian sản phẩm dịch vụ số, phát triển hạ tầng số, để thích ứng với tình hình mới. 

Theo báo cáo đánh giá xu hướng phát triển thị trường quốc tế (External Market Report - International Assessment), dịch vụ số sẽ là một trong những hoạt động chủ lực giúp tăng trưởng chuỗi giá trị viễn thông toàn cầu, đạt ngưỡng 18 nghìn tỷ USD vào năm 2025. Trong đó các dịch vụ số chiếm tỷ trọng lớn là: thanh toán di động (5.000 tỷ USD), thương mại điện tử (2.500 tỷ USD), Internet vạn vật (IoT - 510 tỷ USD), quảng cáo số (180 tỷ USD), nội dung số (462 tỷ USD), giao dịch trên ứng dụng (335 tỷ USD), truyền thông số (195 tỷ USD), giáo dục số (156 tỷ USD), game trực tuyến (90 tỷ USD), nhạc số (37 tỷ USD) và y tế số (27 tỷ USD). 

Với sự bùng nổ các dịch vụ số, các doanh nghiệp viễn thông có cơ hội tham gia cung cấp hạ tầng, kết nối và gia nhập chuỗi cung ứng dịch vụ số cho xã hội. Theo dự báo của EY, các doanh nghiệp viễn thông toàn cầu đã gia tăng doanh thu từ lĩnh vực dịch vụ số 10,2%/năm và dự báo tăng trưởng bình quân 15,2%/năm đến năm 2025. Xu hướng lĩnh vực công nghệ thông tin Việt Nam được dự báo có sự tăng trưởng mạnh về quy mô: từ 4,9 tỷ USD năm 2016 lên 7,0 tỷ USD năm 2020 (tăng bình quân 7,4%/năm), dự báo đến năm 2025 đạt 11,8 tỷ USD (tăng trưởng bình quân 16,5%) và ước năm 2030 đạt 16,5 tỷ USD (tăng bình quân 6,9%/năm).

Trên thực tế, các xu hướng này đã được các doanh nghiệp viễn thông lớn tại Việt Nam ứng dụng, phát triển trong những năm gần đây và đạt được một số thành tích nhất định, cho thấy sự khả quan của việc chuyển dịch sang môi trường số.

Xu thế chuyển đổi số ngành viễn thông - “Chìa khóa” vượt sóng bão hòa

Mobile Money, mạng 5G, Trí tuệ nhân tạo AI hay Internet vạn vật IoT… là những xu thế sẽ tác động đến việc định hình ngành viễn thông mới.

Trong đó Mobile Money và mạng viễn thông 5G hiện đã và đang có những tác động thay đổi tích cực tới ngành viễn thông trong nước. Triển khai thí điểm từ tháng 11/2021, tính đến cuối tháng 6/2022 đã có 1,7 triệu tài khoản, chiếm 97,3% tổng số khách hàng đăng ký và sử dụng dịch vụ. Việc triển khai dịch vụ thanh toán qua tài khoản di động chính là cú huých để các doanh nghiệp viễn thông tham gia sâu hơn vào nền kinh tế số khi mà tương lai, mọi giao dịch từ nhỏ nhất, tại các địa điểm được cho là “truyền thống” như: chợ dân sinh, cửa hàng tạp hóa…cũng sử dụng dịch vụ này. 

Bên cạnh đó, sự phát triển của mạng 5G được đánh giá là động lực phát triển mới cho ngành Công nghệ thông tin - Viễn thông, thúc đẩy chuyển đổi số diễn ra nhanh và hiệu quả trên diện rộng. Việt Nam hiện là một trong số những quốc gia sớm triển khai 5G và thuộc trong nhóm 10 quốc gia có mức độ triển khai địa chỉ Internet thế hệ mới cao nhất toàn cầu. Tốc độ 5G trung bình trong quá trình thử nghiệm tại Việt Nam đạt từ 500-600 Mbps, nhanh hơn gấp 10 lần so với tốc độ truy cập mạng 4G hiện tại. Dự kiến năm 2025 số lượng thuê bao 5G tại Việt Nam sẽ chiếm khoảng 5% tổng số lượng thuê bao di động. Mặt khác, việc triển khai sớm dịch vụ 5G cũng có thể sẽ giúp doanh thu của các nhà mạng di động Việt Nam tăng thêm khoảng 300 triệu USD/năm từ năm 2025 (Theo GSMA Intelligence).

Xu hướng tiếp theo phải kể đến là Điện toán đám mây (Cloud computing). Tốc độ tăng trưởng trung bình của thị trường điện toán đám mây ở Việt Nam được dự báo xấp xỉ 26%/năm - cao nhất khu vực Đông Nam Á và cao hơn 10% so với mức trung bình của thế giới. Hiện nay, ở Việt Nam có 40 nhà cung cấp dịch vụ đám mây, 27 trung tâm dữ liệu của 11 doanh nghiệp; trong đó, các doanh nghiệp Việt chiếm khoảng 20% thị phần. Đây sẽ là thời cơ để các doanh nghiệp nội đầu tư phát triển dịch vụ này.

Một số xu hướng khác như Trí tuệ nhân tạo (AI), Mobile Web hay Internet vạn vật IoT cũng đang được một số doanh nghiệp CNTT-VT áp dụng trong quá trình chuyển đổi số, trở thành điểm tựa vững chắc cho đà tăng trưởng của các nhà mạng trong tương lai.

Nắm bắt cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cùng với sự đòi hỏi cấp thiết của Chính phủ, của doanh nghiệp cũng như của toàn xã hội, các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam cũng đã có những bước chuyển mạnh mẽ từ nhà cung cấp dịch vụ viễn thông truyền thống thành nhà cung cấp dịch vụ số, mục tiêu hướng đến các sản phẩm và dịch vụ số mới. 

Theo VietNamNet